Tên tiếng Việt: Thổ cao ly sâm, Thổ nhân sâm, Đông dương sâm, Cứa ly sinh (Thái), Mằm sâm đăm (Tày)
Tên khoa học: Talinum paniculatum (Jacq.) Gaertn. – Talinum patens (Jacq.) Willd
Công dụng: Bổ, chữa cơ thể suy nhược ốm yếu ho, đau dạ dày (Rễ sắc uống). Thường dùng chữa suy nhược ốm yếu, thể hư ra nhiều mồ hôi, tỳ hư tiêu chảy, đái dầm, kinh nguyệt không đều, thiếu sữa…Thổ nhân sâm hay còn được gọi là sâm đất, sâm thổ cao ly, ở một số địa phương bà con còn gọi là sâm mồng tơi, sâm sam
1. Mô tả giới thiệu về thổ nhân sâm
Cây thảo, sống hàng năm hoặc sống dai, cao 30 – 50cm. Thân hình trụ nhẵn, phân cành ngay từ gốc. Lá mọc so le, dày, gần như không cuống hoặc có cuống rất ngắn, hình bầu dục hoặc hình trứng, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn, gân lá mờ, hai mặt nhẵn gần như cùng màu.
Cụm hoa là một chùy kép mọc ở đầu cành, gồm nhiều hoa nhỏ màu hồng; đài có 2 răng nhỏ; tràng 5 cánh nhọn; nhị nhiều; bầu thượng hình cầu.
Quả nhỏ, hình cầu, khi chín màu đỏ nâu; hạt dẹt, màu đen nhánh.
Mùa hoa quả: tháng 5-11
2. Phân bố, sinh thái thổ nhân sâm
Chi Talinum Adans hiện có 2 loài là thổ nhân sâm và một loài khác là T. triangulare (Jacq.) Willd. được trồng lấy lá và ngọn non làm rau ăn. Cả hai đều có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, sau phát triển ra các vùng khác của thế giới (M. A. Rifai, 1994 in J. s. Siemonsma và Kasem Piluek, PROSEA N° 8 Vegetable, 268 – 269).
Ở Việt Nam, thổ nhân sâm vừa là cây mọc tự nhiên, vừa là cây trồng để làm thuốc. Cây mọc tự nhiên thưòng thấy ở các vùng núi đá vôi như huyện Yên Minh, Quản Bạ tỉnh Hà Giang; Chiêm Hóa – Tuyên Quang; Quảng Hòa, Hà Quảng, Trà Lĩnh – Cao Bằng; Tràng Định, Bắc Sơn – Lạng Sơn; Thủy Nguyên – Hải Phòng; Kỳ Sơn – Nghệ An… Độ cao phân bố từ 400 đến 1300 m. Thổ nhân sâm là cây ưa ẩm, ưa sáng, thường thấy trên các hốc mùn đá, kẽ đá nơi dãi nắng, sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm. Sau mùa hoa quả, phần trên mặt đất có thể bị tàn lụi vào mùa đông. Quả thổ nhân sâm khi già tự mở, hạt phát tán ra xung quanh, do đó trong tự nhiên thường thấy cây mọc thành đám, gồm nhiều thế hệ khác nhau.
Trong các năm 1960 – 1980, ở các tỉnh phía bắc, thổ nhân sâm được thu mua nhiều từ nguồn tự nhiên và trồng trọt. Nguồn thổ nhân sâm mọc tự nhiên hiện nay đã trở nên hiếm dần, do nạn phá rừng.
3. Cách trồng thổ nhân sâm
Thổ nhân sâm được trồng chủ yếu ở các tỉnh phía bắc lấy lá làm rau ăn, củ làm thuốc. Cây có thể trồng được ở các vùng lạnh như Lào Cai, Hà Giang… và vùng nóng như đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
Thổ nhân sâm được nhân giống bằng hạt. Vào mùa xuân, hạt được gieo thẳng trên ruộng sản xuất, không qua vườn ươm.
Cây không kén đất, đất nào cũng trồng được, trừ những nơi úng ngập. Đất cần cày bừa lên thành luống cao 20 – 25cm, bón lót 10 – 15 tấn/ha phân chuồng, rạch thành hàng cách nhau 20cm. Hạt gieo theo hàng, sau tỉa cây để lại khoảng cách 10 – 15cm cho một cây.
Thường xuyên làm cỏ, xới xáo, vun gốc, bón thúc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng.
4. Bộ phận dùng
Rễ, thu hái vào mùa thu, phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, thái mỏng, tẩm nước gừng hoặc nước đường, để chín. Còn dùng lá.
5.Thành phần hóa học
Rễ thổ nhân sâm chứa 1 – hexacosanol, 1 – octacosanol,1 – triacontanol, campestrol, stigmasterol, β- sitosterol, β – sitosteryl – β – D – glucosid (Komatsu Manki và cs, 1982)
6.Tính vị, công năng
Thổ nhân sâm có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ trung ích khí, nhuận phế, sinh tân, kiện tỳ và điều kinh.
7.Công dụng và cách dùng Thổ Nhâm Sâm để chữa bệnh
Trong y học cổ truyền, thổ nhân sâm dược dùng làm thuốc bổ, chữa cơ thể hư nhược, ra mồ hôi váng đầu, ù tai, hoa mắt, trẻ em tỳ hư tiết tả, phụ nữ đới hạ. Còn dùng chữa bệnh phổi, ho, sốt nóng.
Liều dùng: 20 – 30 g/ngày, dưới dạng thuốc sắc. Có khi người ta dùng rễ hoặc lá thổ nhân sâm nấu với thịt để ăn. Ở Indonesia, thổ nhân sâm được dùng làm thuốc kích thích sinh dục (aphrodisiac).
8. Bài thuốc có thổ nhân sâm
Chữa bệnh phổi, ho, sốt nóng, mồ hôi trộm: Rễ thổ nhân sâm 9 -15g, đường kính 60g. sắc nước uống, hoặc nghiền thành bột luyện với mật ong chế thành hoàn uống.
Chữa trẻ em tỳ hư, tiêu chảy: Thổ nhân sâm 150g, gạo tẻ 60g. Hai vị sao vàng nghiền thành bột luyện với mật ong chế thành hoàn. Uống mỗi lần 6g, ngày 2 lần.
Chữa bệnh đái nhiều: Thổ nhân sâm 60g, rễ kim anh 60g, sắc nước, chia làm 2-3 lần uống trong ngày.
Thuốc bổ: Thổ nhân sâm 20g, rễ vú bò 20g, rễ hà thủ ô 20g, rễ bạch truật nam 20g, rễ gai 20g, hoài sơn 16g, rễ sài hồ nam 12g, cam thảo dây 8g, trần bì 8g, gừng 3 lát. Rễ vú bò thái nhỏ sao với nưóc đường. Rễ hà thủ ô (loại đỏ hoặc trắng) ngâm nước vo gạo một ngày một đêm, rửa sạch, tẩm nước đậu đen (100g đậu đen nấu với 5 lít nước còn 2 lít), đem nấu đến khi rễ mềm là được, rồi phơi khô, thái nhỏ, sao qua. Tất cả sắc với 400 ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Một đợt điều trị kéo dài 5 – 7 ngày.
Bài 1: Chữa tiểu tiện nhiều, hỗ trợ đái tháo đường: Thổ nhân sâm 60g, kim anh tử 60g, các vị trên cho vào ấm đổ 550ml nước, sắc nhỏ lửa còn 250ml nước chia 2 lần uống trong ngày. 5 ngày một liệu trình.
Bài 2: Bổ khí huyết – chữa khí huyết suy yếu, người xanh gầy, thở yếu, hồi hộp, ít ngủ, kém ăn, mệt mỏi: Thổ nhân sâm 40, sắc nước uống trong ngày, cho vào ấm đổ 400ml nước, sắc nhỏ lửa còn 150ml nước chia 2 lần uống trong ngày. 10 ngày một liệu trình.
Bài 3: Chữa đại tiện lỏng do tỳ hư: Thổ nhân sâm 30g, đại táo 15g, cho vào ấm đổ 550ml nước, sắc uống thay trà trong ngày.
Bài 4: Hỗ trợ điều trị ho lâu ngày: Thổ nhân sâm, hà thủ ô trắng, thông thảo, mỗi vị 20g, gà một con nhỏ tương đương với 400g. Cách chế biến: Cho các nguyên liệu trên rửa sạch cho vào nồi hầm gà thêm khoảng 80 phút đến khi nước canh có màu trắng sữa. Khi gà chín nhừ, hớt bỏ bớt mỡ, múc gà ra một bát to, đổ hết nước hầm lên, ăn kèm với muối và hạt tiêu.
Bài 5: Chữa mồ hôi trộm: Thổ nhân sâm 60g, dạ dày lợn nửa cái. Cách chế biến: Dạ dày làm sạch để ráo, cho vào nồi hầm thổ nhân sâm. Khi dạ dày chín nhừ, ăn kèm với muối và hạt tiêu.
Bài 6: Người mới ốm dậy, sau phẫu thuật: Sườn lợn 300g, hoàng kỳ 200g, thổ nhân sâm 200g. Xương sườn lợn luộc qua rồi vớt bỏ bọt, hoàng kỳ sắc kỹ lấy nước. Cho hoàng kỳ và sườn lợn vào nồi, chế thêm nước, đun nhỏ lửa và om kỹ, khi đạt độ nhừ cho thổ nhân sâm vào đun tiếp 5 – 10 phút, nêm gia vị vừa đủ ăn với cơm. Mỗi tuần có thể ăn 2 – 3 bữa.
Ngoài ra, những người táo bón lâu ngày nên dùng lá thổ nhân sâm kết hợp với lá vông non và vừng đen đã rang cho nổ mỗi thứ 30g, rễ đinh lăng 20g cùng lá thiên lý non, nấu canh uống hằng ngày.