Trang chủ / Tin Tức / Thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền Yểm Bùa

Thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền Yểm Bùa

Rate this post

Thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền Yểm Bùa. Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh”.

Thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền Yểm Bùa

“Thiền uyển tập anh” hay “Ðại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.

Theo sách “Thiền Uyển tập anh” ghi chép thì vào thời nhà Đường ở Trung Quốc, vua Đường Ý Tông muốn xâm chiếm nước Nam, nhưng nhận thấy vùng đất nơi đây thời kỳ nào cũng có những nhân tài nổi lên. Vua Đường bèn tìm cách trấn yểm linh khí của nước Nam.

Năm Giáp Thân (864), vua Đường cho Cao Biền là một nhà phong thủy đại tài của Trung Quốc thời đó đến Giao Châu làm Tiết Độ Sứ. Khi đi, vua Đường dặn dò Cao Biền rằng:

“Trưng Thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cả cơ nghiệp nhà Đông Hán; rồi lại Triệu Ẩu, Lý Bôn … Làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau có biến. Khanh đến đó trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam, đi và vẽ bản đồ về cho trẫm.”

Cao Biền đi khắp nơi xem xét địa thế và phát hiện có rất nhiều linh khí ở nước Nam. Khi cho xây thành Đại La bên sông Tô Lịch, biết đất ở làng Cổ Pháp có khí tượng Đế vương, Cao Biền đã cắt đứt long mạch nơi đây bằng cách đào đứt con sông Điềm (các nghiên cứu cho rằng có thể là sống Đuống ngày nay) và 19 điểm ở ao Phù Chẩn (thuộc làng Phù Chẩn, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh).

Tuy nhiên, việc Cao Biền phá hoại phong thủy đã bị thiền sư nước Nam tiên đoán từ trước…

Câu chuyện bắt đầu từ thiền sư Định Không thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (diệt hỷ), ở chùa Thiện Chúng thuộc địa phận hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805), sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.

Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Và có đọc hai câu thơ rằng:

Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung
Lý hưng vương tam phẩm thành công.

Dịch là:

Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng
Họ Lý làm vua ba phẩm thành công.

Ngay từ trước khi Cao Biền nhận lệnh trấn yểm nước Nam thì năm 808, thiền sư Định Không đã cho gọi người kế tục mình là Thông Thiện đến dặn dò trước khi viên tịch rằng: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”. Vậy là vị thiền sư đã tiên đoán được việc Cao Biền phá phong thủy, và việc người kế tục đệ tử của ông sẽ mang họ Đinh.

Chuyện thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền

Sau này, sư Thông Thiện gặp một đệ tử rất thông minh là Đinh La Quý. Đoán biết đây là người kế tục mình nên ông đã truyền thụ hết các sở học cho đệ tử.

Theo dân gian thì ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Chính ngài La Quý là người đã nối lại long mạch cho làng Cổ Pháp. Năm 936 (thời Dương Đình Nghệ), biết mình sắp mất, ngài La Quý gọi đệ tử chân truyền của mình là Thiền Ông đến nói:

“Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng Đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.

Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.

Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Thiền sư La Quý còn cẩn thận dặn dò Thiền Ông rằng: “Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy”.

Vậy việc nối lại khí tượng đế vương làng Cổ Pháp có tác dụng không? Vị đế vương làng Cổ Pháp là ai? Trong sách “Thiền Uyển tập anh” có ghi chép rằng, trước khi mất ngài La Quý có làm một bài thơ tiên đoán như sau:

Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh

Dịch là:

Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên

Ở câu thứ 3 “thập bát tử” tức chữ thập (+), chữ bát (八), chữ tử (子) tạo thành chữ Lý (李) ý chỉ vị vua sau này mang họ Lý. Hai câu sau nói ra vị vua này lên ngôi vào tháng chuột (tháng 11) năm gà (tức năm dậu 1009). Vị vua mang họ Lý lên ngôi vua vào tháng 11 năm 1009 chính là vua Lý Công Uẩn.

Năm 1009, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, một tia sét lớn đánh vào cây bông gạo khiến cây bị gãy cành, nhưng cây không chết. Chính vì thế mà làng Diên Uẩn, Cổ Pháp còn gọi là làng Dương Lôi hay Đình Sấm. Có giả thiết cho rằng sự việc này cũng là do thầy phong thủy Trung Quốc làm.

Đúng như lời đoán trước khi mất của thiền sư La Quý, vua Lý Công Uẩn là người làng Cổ Pháp. Khi ông lên ngôi đã duy hộ Phật Pháp, dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã hội ổn định. Kể từ đó, Đại Việt hùng mạnh, mở ra thời kỳ thịnh trị.

Chùa Cổ Pháp còn gọi là chùa Dặm, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi Lý Công Uẩn từ năm lên 3. (Ảnh minh họa qua diendan.gioitreviet.com)
Vào thời nhà Lý, Đại Việt bị kẹp giữa gọng kìm bởi liên minh Tống – Chiêm, thế nhưng nhà Lý không chỉ giữ vững Giang Sơn mà còn có những cuộc Nam – Bắc tiến phá tan gọng kìm liên minh Tống – Chiêm.

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân Nam tiến đánh Chiêm Thành, chiếm thành và bắt sống vua Chiêm.

Lấy tấn công để phòng thủ, năm 1075, Lý Thường Kiệt đưa quân Bắc tiến, đánh sang đất Tống. Quân Đại Việt chiếm nhiều Châu Trại trên đất Tống như Khâm Châu, Liêm Châu, Lộc Châu, Bạch Châu, Ung Châu. Quân Tống đại bại, hàng chục tướng nhà Tống bị tử trận. (Xem bài: Lý Thường Kiệt: Từ hoạn quan đến vị tướng tài lừng danh sử Việt)

Sự lên ngôi của vua Lý Công Uẩn đã mở ra thời kỳ cường thịnh của Đại Việt, cũng cho thấy sự tài ba của các thiền sư Việt khi phá giải thuật phong thủy của Cao Biền.

HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.

1/ HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ. Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ. Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh, Mạch, Lạc nằm ở những nơi cố định. Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm, một mạch Đốc, 12 đường Kinh chính, cộng thành 14 Huyệt Kinh, có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt. Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên khí, Địa khí, Thời khí, có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận. Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.

2/ KINH : Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia. Các đường đó đi lắt léo, chồng chất qua rất nhiều chỗ; liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương, Ngũ hành, liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống, tinh thần con người, vì vậy mà gọi là Kinh.

3 /MẠCH : Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra. Nó đi khắp nơi, phân chia ra nhiều chỗ cần thiết, đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.

4/ LẠC : Nó là các đường của Kỳ huyệt, nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt, chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc ?

Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.

*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính, quan hệ với Tạng phủ, chuyển dần sang các chi nhánh, Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ, phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn, Vía, Phách và thể xác.

* Ngoại Kinh là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính, khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng, tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day, châm, cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể

Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén, rất công hiệu, có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho đó là Thần bí.

Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm, Đốc;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt.

Xin nói thêm về Huyệt : Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm. Có các loại Huyệt là Du huyệt, Mộ huyệt, Nguyên huyệt, Lạc huyệt, Khích huyệt..

Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật. Theo người viết được biết : Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh, Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.

Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục phủ, ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn, mạnh thì dẫn đến tử vong, nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.

Theo nguyên lý “Con người là tiểu Vũ trụ” thì Âm Dương Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất : Can – Đởm,Tâm -Tiểu trường, Tỳ -Vị, Phế – Đại trường, Thận – Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngũ hành. Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.

Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương, còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.

Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa. Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu. Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với bán cầu não Phải), nhánh phải thuộc Âm (đối ứng với bán cầu não trái). Từ đó các Huyệt được chia ra : Huyệt phía trái thuộc Dương, Huyệt phía Phải thuộc Âm

Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên – Địa – Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long, mạch như sau :

– Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời, Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này).

1/ Về Thiên : Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng) trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người. Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian, với con người khác nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời, được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ – Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).

Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Vân hớn, Kế đô, Thái âm, Mộc đức và Tam kheo, Ngũ hộ, Thiên tinh, Toán tận, Thiên la, Địa võng, Diêm vương, Huỳnh tuyền) ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất. Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.

2/ Về Địa : Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long) chảy theo các mạch nước, tụ lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng). Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG : Đó là khí Âm thăng lên – THĂNG LONG. ĐÂY MỚI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG).

Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm – Địa khí .

3/ Về Nhân : Có thể xác định được Âm phần, Dương phần, Họa, Phúc, Mệnh, Thân của từng con người. Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt Nam phần Bắc bộ. Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau : Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình, tới dãy Tam đảo, dọc theo sông Tô lịch ngày xưa, đi tiếp tới Cổ loa, kéo dài đến sông Đuống, sông Thái bình, ra tới Quảng Ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long. Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.y nghia so dien thoai

Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.

Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau : Xuất phát cũng từ những rặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình đi tới dãy núi Ba vì, qua cầu Hàm Rồng theo sông Lam và dãy núi Hồng lĩnh đổ ra biển. Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Bạch hổ thuộc Âm, do vậy Long mạch này có hành khí Âm. Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm.

Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự trấn yểm của Cao Biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều. Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao Biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.

Theo các cổ thư chữ Hán, cung Đoài có độ số là 7 – ứng với phương Tây. Đây là độ số của Lạc thư. Chính vì vậy mà Cao Biền mới trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của phương Tây. Tuy nhiên , theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ – Kinh đô của các Thời đại Hùng vương) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.

Theo người viết, trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thiên Bát quái mới chính xác. Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông nam,… tới Tây, tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau : 1-8-3-2-7-4-9-6.

Ta vẫn biết rằng :

1 – là hành Dương Thủy.

6 – là hành Âm Thủy.

8 – là hành Âm Mộc.

3 – là hành Dương Mộc.

2 – là hành âm Hỏa.

7 – là hành Dương Hỏa.

5 – là hành Dương Thổ.

10 – là hành Âm Thổ.

4 – là hành Âm Kim.

9 – là hành Dương Kim.

Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau : Thủy (6-1) sinh Mộc (8-3) sinh Hỏa (2-7) sinh Thổ (10-5) sinh Kim (4-9) và lại trở về hành Thủy.phong thuy so dien thoai

Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay. Điều quan trọng là nếu Cao Biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.

Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao Biền trấn yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này, dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực P. Nghĩa Đô – Q. Cầu Giấy – Hà Nội, theo thuận dòng chảy Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy) chảy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.

Như vậy hiện nay, dòng chảy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa). Nhánh Thanh long thuộc Dương khí, đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó. Ngược lại ,nhánh Bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện, ngòai trường hợp cũng do Cao Biền chê là vùng đất Thanh hóa, Nghệ an có một con rồng (Long mạch) nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm. Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.

Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này, thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng : Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự trấn yểm của Cao Biền, các vị Vua, tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.

Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các cao nhân, tiền bối, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.

Các câu hỏi đó là : Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao Biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Hà Nội nói riêng và đất nước nói chung ??? Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?

Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ? Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ?

Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này. Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở.

Trong bài viết, tôi có sử dụng một số tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG – Nghệ an, Ẩn sĩ Lý Thiên Hương – Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn

Tôi đã xác minh lại nguồn tin này; theo Thượng tọa Thích Huệ Xướng -Chùa Giác Lâm – Q. Tân Bình: Thượng tọa Thích Viên Thành đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch, nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não. Thượng tọa Thích Viên Thành là chủ trì chùa Hương

Giải thích thêm : Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên) Yểm (Chôn xuống) cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác. Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần. Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu ?

Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng đó. Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử – Tất nhiên vì chỉ có những người trấn yểm mới biết, những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực. Tuy nhiên, không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.

Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc Yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó. Theo nhận xét của riêng người viết, khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9. Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm, Cao Biền cũng biết rất rõ điều đó, chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây. Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay, phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao Biền sẽ sai theo.

Theo người viết được biết, tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa, các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái. Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác. Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà, Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ. Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch, theo thiển ý của người viết, nên dùng hình thức Trấn – tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành. Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt, hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa.

Theo những tin tức gần đây nhất, sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên, cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra. Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa. Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm), luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi, cũng không loại trừ đã có sự trấn, yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.

Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh. Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không) : Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở, vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ. Từ rất lâu đời, các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu, nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *